Các lựa chọn điều trị ung thư da

Các lựa chọn điều trị

Có một số lựa chọn có sẵn để điều trị ung thư da không phải u hắc tố (ung thư biểu mô tế bào đáy và ung thư biểu mô tế bào vảy). Bao gồm:1

  • Ca phẫu thuật
  • Xạ trị:
    • Xạ trị chùm tia ngoài – xạ trị từ bên ngoài vào
    • Xạ trị gần (xạ trị can thiệp) – đưa nguồn bức xạ đến gần khối u
  • Các liệu pháp khác: phương pháp phá hủy (phẫu thuật lạnh), liệu pháp quang động, thuốc bôi ngoài da, laser, hóa trị

Phương thức phổ biến nhất được sử dụng để điều trị ung thư da là cắt bỏ bằng phẫu thuật. Tuy nhiên, có một nhóm bệnh nhân sẽ tốt hơn khi được điều trị bằng xạ trị. Những cân nhắc về kết quả thẩm mỹ và/hoặc chức năng và những cân nhắc về rủi ro của các thủ thuật phẫu thuật có thể dẫn đến việc lựa chọn xạ trị làm phương pháp điều trị được lựa chọn.2 Dựa trên bằng chứng lâm sàng hiện có, Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc gia, một liên minh của các trung tâm ung thư hàng đầu thế giới, đã kết luận rằng các liệu pháp tại chỗ như kem và liệu pháp quang động chỉ nên được cân nhắc nếu không thể phẫu thuật và xạ trị.2 Xạ trị bao gồm xạ trị gần là một phương pháp thay thế tốt cho phẫu thuật, không chỉ trong những trường hợp không thể phẫu thuật mà còn trong những trường hợp dự kiến kết quả chức năng hoặc thẩm mỹ sẽ tốt hơn khi xạ trị so với phẫu thuật (vùng trán, tai, mũi, da đầu) và ở những bệnh nhân lớn tuổi hoặc yếu ớt.3,4,5,6

Ưu và nhược điểm của phương pháp điều trị ung thư da

Mỗi phương pháp điều trị đều có ưu và nhược điểm. Bạn nên cân nhắc và thảo luận những điều này với chuyên gia chăm sóc sức khỏe của mình khi lập kế hoạch điều trị.

Sự đối đãi Thuận lợi Nhược điểm
Phẫu thuật (như cắt bỏ và phẫu thuật Mohs) Hiệu quả cao, có thể kiểm soát biên độ, quy trình thực hiện trong một ngày.6 Các mô khỏe mạnh cũng được loại bỏ Thường hạn chế hoạt động để vết thương mau lành, sẹo Thường cần phải thực hiện các thủ thuật tái tạo Nguy cơ biến chứng trong quá trình lành vết thương.
Xạ trị chùm tia ngoài (EBRT) Không xâm lấn, không đau Hiệu quả tương đương với phẫu thuật Cho phép bệnh nhân tiếp tục dùng thuốc theo toa.7 Quá trình điều trị có thể kéo dài (4–6 tuần). Không phù hợp với tất cả các nhóm bệnh nhân.6
Liệu pháp xạ trị gần Hiệu quả cao, kết quả chức năng và thẩm mỹ tuyệt vời, cho phép bệnh nhân tiếp tục dùng thuốc theo toa. Ít lần hơn so với liệu trình EBRT (2-3 lần một tuần, thay vì hàng ngày), điều này có nghĩa là bệnh nhân phải điều trị ít hơn, đặc biệt hữu ích cho bệnh nhân cao tuổi và yếu.3 Không có sẵn ở tất cả các bệnh viện Nhiều phân số (thường là 6-8) Có thể xâm lấn tùy thuộc vào kỹ thuật xạ trị gần.
Các liệu pháp khác Thường không xâm lấn; là giải pháp thay thế an toàn và hiệu quả cho phương pháp điều trị truyền thống.8 Không phù hợp với tất cả bệnh nhân: cần cân nhắc các yếu tố như vị trí khối u, kích thước, loại tế bào. Cần có thêm nhiều nghiên cứu để chứng minh hiệu quả của phương pháp điều trị.

Câu trả lời chính xác để giải quyết bệnh ung thư da

Tải xuống hướng dẫn dành cho bệnh nhân ung thư da (pdf)

Tài liệu tham khảo

1. Viện Ung thư Quốc gia. Có tại: https://www.cancer.gov/types/skin/patient/skin-treatment-pdq#_59 . Truy cập tháng 6 năm 2021 2. Bichakjian CK và cộng sự. NCCN Clinical Practice in Oncology (NCCN Guidelines®) Basal Cell Skin Cancer 2016. Có tại: https://jnccn.org/view/journals/jnccn/14/5/article-p574.xml Truy cập tháng 6 năm 2021 3. Guinot JL và cộng sự. Radiother Oncol 2018; 126:377-85. Có tại: https://doi.org/10.1016/j.radonc.2018.01.013 Truy cập tháng 6 năm 2021 4. Frakulli R và cộng sự. J Contemp Brachytherapy 2015; 7(6):497-502. Có tại: https://dx.doi.org/10.5114%2Fjcb.2015.56465 Truy cập tháng 6 năm 2021

5. Bussu F. et al. Laryngoscope 2016; 126(2):367-71. Có tại: https://doi.org/10.1002/lary.25498 Truy cập tháng 6 năm 2021 6. Newlands C et al. J Laryngol Otol 2016: 130:S125-S132. Có tại: https://doi.org/10.1017/S0022215116000554 Truy cập tháng 5 năm 2021 7. Drucker AM et al. Ann Intern Med 2018; 169(7):456-66. Có tại: https://doi.org/10.7326/m18-0678 Truy cập tháng 6 năm 2021 8. Altun E. et al. Dermatol Ther 2021; 34(1):e14476. Có tại: https://doi.org/10.1111/dth.14476 Truy cập tháng 6 năm 202